Đại dịch Covid-19 đã gây ra những tác động khá tiêu cực đến sức khỏe của nền kinh tế và đến cuộc sống của người dân trên toàn thế giới. Tài chính luôn được xem là huyết mạch của nền kinh tế quốc gia, và trong thời đại dịch, khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính của người dân đã bị hạn chế đáng kể.
Trong nguy luôn có cơ, và đây chính là cơ hội vàng để các dịch vụ công nghệ tài chính (Fintech) phát triển, thâm nhập vào các hoạt động của doanh nghiệp cũng như vào cuộc sống của người dân. Việc các chính phủ khuyến khích thương nhân và người dân sử dụng các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt và không tiếp xúc để giảm thiểu rủi ro sự lây lan của virus đã đem tới các cơ hội để ứng dụng các dịch vụ tài chính số (digital financial services).
Thói quen, tâm lý, hành vi của người tiêu dùng đang thay đổi rất nhanh do tác động của mạng xã hội, do những trải nghiệm tuyệt vời mà các ứng dụng số tạo ra cho người dùng đáp ứng các nhu cầu khác nhau của cuộc sống: từ học tập, giải trí, mua sắm, và cả tập luyện, khiến cho các các công ty Fintech có “đất diễn” và họ nhanh chóng chớp lấy thời cơ này để thâu tóm một lượng khách hàng mới gấp nhiều lần so với nỗ lực nhiều năm trước đó. Khách hàng được tiếp cận với những giải pháp tài chính thông minh và tiện lợi hơn do các công ty Fintech tiên phong xây dựng và cung cấp ra thị trường. Ví dụ các loại ví điện tử như MoMo, Viettel Pay, Payoo, MoCa, VinID,…giúp khách hàng dễ dàng thanh toán cho các khoản chi tiêu trên các nền tảng shopping tiêu dùng, gọi xe, gọi đồ ăn hoặc trực tiếp tại các cửa hàng.
Điểm lợi thế của các công ty Fintech so với các ngân hàng nằm ở mô hình vận hành và vấn đề của khách hàng mà Fintech giải quyết. Vốn là các startup hoạt động trong lĩnh vực công nghệ tài chính nên công ty Fintech có mô hình rất gọn nhẹ, ra quyết định nhanh, và chỉ tập trung giải quyết một nỗi đau (pain-point) hoặc nhiệm vụ cần hoàn thành nào đó của khách hàng (job-to-be-done). Ví dụ: một số giải pháp Fintech về cho vay tiêu dùng có thể rút ngắn thời gian xét duyệt so với ngân hàng truyền thống nhờ áp dụng công nghệ như dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo để định danh khách hàng hoặc đánh giá tín dụng nhanh hơn so với các phương pháp và quy trình thông thường đang áp dụng ở các ngân hàng. Tuy nhiên, do nguồn lực có hạn và chưa chiếm được ngay niềm tin của khách hàng nên Fintech ban đầu chỉ tiếp cận được một lượng khách hàng nhất định trên thị trường.
Ngược lại, về mặt công nghệ, những gì Fintech làm được, các ngân hàng cũng có thể làm được, nhưng do những ràng buộc về mô hình kinh doanh, hay do sức ì của một bộ máy tổ chức lớn hoặc do các rào cản về quy định nên các ngân hàng chưa thể dịch chuyển nhanh hoặc có mức độ chấp nhận rủi ro cao như công ty Fintech. Cơ sở khách hàng rộng lớn chính là điểm mạnh của ngân hàng và là điểm yếu của công ty Fintech. Chính vì vậy, hợp tác giữa các ngân hàng và các công ty Fintech nhằm mang lại trải nghiệm và lợi ích vượt trội hơn cho khách hàng là một xu thế tất yếu trong ngành tài chính, đặc biệt trong kỉ nguyên bùng nổ công nghệ. Việc chủ động tích hợp kịp thời Fintech vào kinh doanh đã cho phép các ngân hàng và Fintech nhanh chóng nâng cao năng lực và lợi thế cạnh tranh trên thị trường, tiếp cận sâu các phân khúc khách hàng mới, tiềm năng.
Năm 2020, thị trường Việt Nam đã ghi nhận sự phát triển nhanh chóng các ngân hàng số (Digital Banking), các ngân hàng mới (Neo Banks) khi các dịch vụ Fintech ngày càng phổ biến và được tích hợp vào nhiều dịch vụ ở các ngân hàng. Một loạt ngân hàng thương mại của Việt Nam đã ký kết hợp tác với các công ty Fintech quốc tế, như sự hợp tác giữa VietinBank và Opportunity Network (Anh), CIMB Bank Vietnam và Toss (Hàn Quốc), VPBank và BE Group (Thụy Điển), OCB và RippleNet (Mỹ), TPBank với Backbase (Hà Lan), hay như đã lựa chọn Temenos Infinity Wealth để cung cấp dịch vụ quản lý tài sản kỹ thuật số (digital wealth management service) cho khách hàng. MBBank tích hợp Temenos Infinity Wealth, sản phẩm ngân hàng kỹ thuật số đa kênh tiên tiến, với sản phẩm ngân hàng lõi Temenos Transact mang lại một giải pháp quản lý tài sản đầu cuối (end-to-end wealth management solution). Công nghệ cho phép MBBank trở thành ngân hàng cung cấp dịch vụ khác biệt dành cho đại chúng, với những sản phẩm cao cấp dành cho phân khúc khách hàng sở hữu tài sản giá trị cao trong bối cảnh thị trường quản trị tài sản đang phát triển khá nhanh ở Việt Nam.
Sự hợp tác giữa các ngân hàng và công ty Fintech trong bối cảnh “bình thường mới” là một minh chứng rõ ràng về xu hướng vừa hợp tác vừa cạnh tranh (co-opetition) đang diễn ra ở rất nhiều ngành công nghiệp, kết nối tài chính toàn diện và mang dịch vụ tài chính, ngân hàng tới nhiều nhóm khách hàng hơn. Khách hàng, người dùng cuối chính là đối tượng được hưởng lợi nhất từ những sự hợp tác này, đặc biệt là nhóm unbanked (những người chưa từng được tiếp cận dịch vụ ngân hàng).